Nỗi sợ kỳ lạ của một đứa trẻ
Hồi còn nhỏ, mình có một nỗi lo thầm lặng mà chưa bao giờ dám nói với ai. Đó là cảm giác sợ một ngày nào đó, những món bánh quê thân thuộc sẽ âm thầm biến mất cùng với bóng dáng của những người già trong xóm. Má, nội, ngoại, mấy cô mấy bác… ngày một chậm lại trong từng bước chân, mỗi mùa trôi qua lại thấy tóc bạc nhiều hơn, lưng còng thêm chút nữa. Trong khi đó, tụi nhỏ chúng mình chỉ biết xúm quanh mâm bánh, đứa nào cũng mắt sáng rỡ, chỉ giỏi gắp miếng to nhất, ngon nhất, chứ nào có đứa nào chịu đứng yên bên bếp học cách vo bột, gói lá, canh lửa cho đều. Nghĩ lại thấy buồn cười, mà cũng thấy chênh vênh.

Ảnh FB Thoong Dành Kể Chuyện
Có những đêm nằm nghe mùi khói bếp còn vương đâu đó trong tóc, trong áo, mình lại lẩn thẩn tự hỏi: nếu mai này những người làm bánh lần lượt rời xa, những món bánh quê sẽ trôi dạt về đâu? Chúng sẽ biến mất như ngọn khói bếp tan vào chiều, hay chỉ còn sót lại vài mảnh vụn ký ức, nhạt dần trong trí nhớ của một vài người chịu khó nhớ giùm quá khứ?
Cái rổ tre cũ và lớp bột gạo biết “sống”
Trong căn bếp nhỏ của nội, thứ mình nhớ nhất không phải là cái nồi to hay cái chày cối, mà là một cái rổ tre cũ đã sờn mép, lúc nào cũng thơm mùi gạo mới. Mỗi lần nội làm bánh, bột gạo được đổ vào rổ, mịn màng và trắng ngần, nhìn thôi đã thấy muốn chạm tay vào. Đám con nít tụi mình không bao giờ bỏ qua cơ hội đó. Đứa thì chọt tay vào lớp bột, đứa thì dùng đầu ngón tay vẽ những hình thù kỳ cục trên mặt bột, khi là mặt cười, khi là con cá, có khi chỉ là mấy đường nguệch ngoạc chẳng giống gì.

Ảnh: internet
Nội thường vừa làm vừa liếc tụi mình, thấy đứa nào quậy quá thì giả bộ hăm dọa: “Đừng có chọc bột nữa, bột nó còn sống đó, nó đang thở, phá nhiều coi chừng lát nữa bánh không chịu nở đâu nghe.” Lúc đó tụi mình nghe xong chỉ biết cười khúc khích, tưởng nội nói chơi cho vui. Nhưng rồi cũng sợ bánh không nở thiệt, nên rụt tay lại, đứng im một lúc rồi lát sau… lại chọt tiếp.
Lạ một điều là, không biết có phải vì niềm tin của nội hay vì đôi tay đã quen đến thuộc lòng, mà bánh của nội lúc nào cũng đẹp. Bánh da lợn từng lớp xanh trắng chồng lên nhau ngay ngắn, cắt ra miếng nào ra miếng đó, mặt bánh láng o nhưng không hề bở. Bánh bò thì nở bung, ruột bánh rỗng xốp như rễ tre, đưa lên mũi đã nghe mùi thơm của cơm rượu, của gạo lành. Chỉ cần một miếng nhỏ thôi là đủ nhớ dai đến tận bây giờ.


Ảnh: internet
Nội không cần công thức, chỉ cần ký ức trong đôi tay
Trong thời buổi bây giờ, người ta làm bánh hay mở sách, tra mạng, cân từng gram bột, đo từng ml nước. Còn nội thì chẳng bao giờ có một cuốn sổ nào gọi là “bí quyết gia truyền”. Đối với nội, mọi thứ gói gọn trong mấy chữ “quen tay là được”. Một nắm bột gạo, một chén đường, chút nước cốt dừa, nắm muối nhỏ xíu, lá chuối trụng qua cho mềm… tất cả được nội ước lượng bằng mắt, đo đếm bằng cảm giác. Nội không nhìn đồng hồ, chỉ nhìn màu của bột, nghe tiếng sôi của nồi nước, ngửi mùi thơm bốc lên là biết bánh đã “tới”.

Ảnh: internet
Đổ bánh đúc thì nội bảo phải canh lửa cho “ngọt”, không to quá cũng không nhỏ quá. Bánh đổ ra phải mềm nhưng không nhão, cắt miếng vẫn đứng dáng mà khi ăn thì trơn tru, không bị khô. Làm bánh ít thì nội gói nhanh đến mức tụi mình chỉ kịp ngó theo, lá chuối được gấp gọn, mép lá khít vào nhau, cột dây xong cái bánh thắt eo nhìn duyên như cái lưng ong của mấy cô gái quê. Lúc làm bánh tổ, nội thường chọn đường thẻ hay đường mật, nội nói như vậy màu bánh sẽ lên đậm hơn, thơm lừng chứ không gắt. Đến xôi vị, nội không quên bỏ chút gừng, vừa thơm vừa làm vị ngọt được dằn lại, ăn hoài không ngán. Những đòn xôi nhỏ xíu nằm gọn trong lòng bàn tay, bóc ra dẻo thơm, nghe tiếng lá chuối sột soạt cũng thấy vui mắt vui tai.

Ảnh: internet
Tất cả những điều đó, nội chưa bao giờ ngồi xuống “dạy” ai một cách bài bản. Nội cứ lặng lẽ làm, còn tụi con cháu thì lăng xăng chạy tới chạy lui, đứa chụm củi, đứa phe phẩy quạt than, đứa canh nồi nước, đứa thì chỉ rình lúc bánh chín để bẻ trộm một góc, bỏ vô miệng ăn vội, nóng đến phỏng lưỡi cũng ráng chịu, vừa xuýt xoa vừa cười.
Bánh quê đâu chỉ là bánh
Lớn lên rồi mới hiểu, ở quê, bánh không chỉ là thứ để ăn cho no miệng. Mấy món bánh quê, nhìn tưởng đơn giản nhưng thật ra gom trong đó bao nhiêu thứ thuộc về ký ức và tình cảm.

Ảnh: internet
Đó là mùi khói bếp lảng bảng trong gian nhà nhỏ, là tiếng củi nổ lách tách trong lò, là tiếng dao thớt gõ nhịp nhàng trên cái phản gỗ lâu năm. Là mùi nước cốt dừa béo ngậy quện vào nếp áo của má, chiều về vẫn còn thơm thoang thoảng. Là những vệt khói ám vào mái tóc đã bạc trắng của nội, khiến mình chỉ cần ngửi thôi là biết nội vừa đứng bếp.
Bánh còn là hình bóng của đôi bàn tay nhăn nheo, gân guốc nhưng chưa bao giờ run khi gói lá, khi múc bột. Đôi tay đó nhớ chính xác từng thớ bột, từng độ dẻo, độ sệt. Nội chỉ cần nhắm mắt chạm tay vào là biết phải thêm nước hay bớt bột, biết cái bánh đó đã “được” chưa. Trong những chiếc bánh bình dị ấy, có cả tuổi trẻ của nội, có những năm tháng thiếu trước hụt sau, có những mùa giáp hạt vẫn cố làm vài mẻ bánh để tụi con nít có cái mà mừng Tết, mừng Rằm.
Ngày bếp tro nguội lạnh đến sớm hơn mình nghĩ
Nhưng rồi, như bao điều khác trong đời, tới một lúc nào đó, những thứ mình tưởng sẽ ở đó hoài lại bắt đầu lần lượt rời xa. Một ngày kia, bếp tro năm nào bỗng vắng lửa. Cái lò đất trước hiên nhà bị dỡ đi cho gọn sân. Cái rổ tre cũ dần sờn rách mép, rồi biến mất lúc nào không hay, chắc đã bị bỏ đi khi mục nát quá, chẳng còn xài được nữa. Tiếng dao thớt cũng thôi rộn ràng mỗi buổi sớm, nhường chỗ cho những bữa ăn vội vàng, gọn nhẹ.

Ảnh: internet
Người ta già đi không phải trong một ngày, nhưng có những lúc, mình bỗng giật mình vì nhận ra sự thay đổi đã quá rõ rệt. Nội bắt đầu phải đưa tay rờ rẫm mới thấy đường, mắt không còn tinh như xưa, đọc chữ cũng khó khăn. Đôi tay từng nhồi bột cả buổi không biết mỏi giờ run run khi cầm cái vá, chứ nói chi đến chuyện nhào bột, gói bánh, đứng bên bếp lửa nóng cả buổi trời. Cái dáng ngồi thoăn thoắt bên nồi hấp giờ chỉ còn trong trí nhớ.
Ngày mình nhận ra nội không còn đủ sức để làm một mẻ bánh như thuở nào, lòng thấy hụt hẫng vô cùng. Hóa ra, ngày mà mình từng sợ hồi nhỏ – ngày bếp tro nguội lạnh, ngày không còn ai tất bật chuẩn bị mâm bánh – đã đến nhanh hơn mình tưởng rất nhiều. Nó không ập đến ồn ào, mà đến bằng những buổi sáng bếp không đỏ lửa, bằng những cái lắc đầu của nội khi ai đó nhắc tới chuyện “hôm nào làm ít bánh cho tụi nhỏ ăn chơi”.
Khi ký ức không thể thay thế đôi tay đã mất

Ảnh: internet
Sau này, khi đi xa nhà, mỗi lần lang thang ngoài chợ thấy người ta bán bánh da lợn, bánh bò, bánh ít, mình vẫn hay dừng lại nhìn thật lâu. Có khi mua thử một miếng, ăn mà trong lòng cứ so đo: sao không giống bánh nội làm, sao mùi gạo không đậm bằng, sao nước cốt dừa không thơm bằng, sao miếng bánh lại thiếu một chút gì đó mà mình không gọi tên được.
Rồi mình hiểu ra, không phải những người làm bánh bây giờ không khéo, mà bởi vì trong chiếc bánh nội làm ngày xưa có cả một phần ký ức đã không thể lặp lại. Người ta có thể dùng cùng loại bột, cùng cách hấp, cùng công thức, nhưng họ không thể nào cho vào đó mùi khói bếp ngày xưa, tiếng cười nói của mấy đứa con nít chạy quanh, hay giọng nội càm ràm mà đầy yêu thương. Những thứ đó, chỉ có thời gian mới ướp được, mà thời gian thì đã đi mất cùng với tuổi trẻ của nội.
Mình từng trách bản thân sao hồi đó ham ăn mà không chịu học. Nếu lúc ấy chịu khó đứng yên quan sát thêm chút nữa, chịu ghi nhớ từng động tác của nội, có lẽ bây giờ đã làm được chiếc bánh gần giống như xưa, để ít ra mỗi mùa Tết, mùa Rằm, vẫn có thể bày ra mâm một phần ký ức trọn vẹn hơn. Nhưng tuổi thơ mà, cứ nghĩ mọi thứ sẽ ở đó mãi, như cái bếp tro chưa bao giờ nguội, như nội chưa bao giờ mệt.
Giữ lại chút ngọt ngào cho mai sau
Giờ đây nghĩ lại, mình mới thấy hóa ra nỗi lo “bánh quê sẽ biến mất” không phải là chuyện vẩn vơ của một đứa trẻ tham ăn, mà là một nỗi sợ rất thật: sợ những điều quen thuộc nhất của quê nhà một ngày nào đó chỉ còn trong sách vở, trong lời kể, trong vài tấm ảnh cũ.

Ảnh: internet
Nhưng có lẽ, mọi thứ chưa hẳn đã mất đi. Dù không còn cái rổ tre cũ, không còn cái lò đất, không còn đôi tay của nội, mình vẫn có thể bắt đầu học lại từ đầu. Học từ những mảnh ký ức rời rạc, từ mùi vị còn sót lại trong trí nhớ, từ những lần thử sai, bánh hư thì cười, bánh ngon thì khóc vì nhớ nhà. Mỗi chiếc bánh làm ra, dù chưa thể giống y như ngày xưa, vẫn là một cách để mình nối lại sợi dây với quá khứ, với nội, với quê hương.
Có thể mai này, những đứa nhỏ sinh ra sẽ không biết thế nào là bếp tro, không thấy được cảnh nội bưng xửng bánh nóng hổi ra giữa sân. Nhưng nếu trên bàn ăn của chúng vẫn còn một miếng bánh quê, nếu trong câu chuyện của người lớn vẫn còn nhắc đến nội, đến má, đến cái rổ tre cũ, thì những món bánh ấy đâu đã biến mất. Chúng chỉ đổi chỗ trú ngụ, từ gian bếp ngày xưa sang trong lòng của những người chịu khó nhớ và chịu khó gìn giữ.
Và biết đâu, một ngày nào đó, sẽ có đứa trẻ khác, đang cắn dở một miếng bánh tổ hay một cái bánh ít, bỗng hỏi: “Ngày xưa ai dạy má làm bánh vậy?” Khi đó, có lẽ mình sẽ mỉm cười, kể lại chuyện cái rổ tre cũ, chuyện lớp bột “biết thở”, chuyện những chiếc bánh quê đã lớn lên cùng tuổi thơ mình. Chỉ mong rằng, nỗi lo ngày xưa sẽ được xoa dịu phần nào, vì vẫn còn người muốn nghe, và vẫn còn người muốn giữ lại vị ngọt của những chiếc bánh quê đã từng.

Game Việt Goosing Out có “cái kết có hậu”, không còn là cuộc chạy vô tận
Lâu lâu về lại quê, mình chợt nhận ra người quen dần dần đã vắng đi nhiều
Vì sao “Phở Anh Hai” bỗng thành từ khóa nóng nhất Việt Nam?
Thương lắm gánh rau của má
Không lẽ ở ngoài người ta nói con sao thì ba mẹ cũng tin hết vậy sao?